Chuyển biến trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Mới đây, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới nhất, Với việc bổ sung khoản mục vốn đầu tư nước ngoài qua hình thức góp vốn, mua cổ phần vào hệ thống số liệu thống kê quốc gia, bức tranh về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang dần trở nên sinh động hơn.

Tín hiệu tích cực

Từ quý III năm 2016, Cục Đầu tư nước ngoài đã bắt đầu cung cấp những số liệu về tình hình đầu tư nước ngoài theo hình thức góp vốn, mua cổ phần thay vì chỉ có số liệu về vốn đầu tư trực tiếp (FDI) như thường lệ. Sang quý IV năm 2016, Tổng cục Thống kê cũng chính thức công bố số liệu này với lý do “mức độ đầu tư đã đạt được những thành tựu đáng kể”.

Chuyển biến trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Theo số liệu mới nhất được tổng cục thống kê công bố, trong quý I năm 2017, đã có 1.077 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp là 825 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2016, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam qua hình thức góp vốn, mua cổ phần đã tăng vọt 271,5% về số vốn và tăng 148,3% về số lượt dự án. Con số này thể hiện sự sôi động trong hoạt động mua bán, sáp nhập của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam như đã thấy trong thời gian qua.

Sự tăng trưởng mạnh mẽ này là do sự thu hút từ lĩnh vực kinh tế Việt Nam cùng với sự cải thiện về thủ tục cấp giấy chưng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây, Luật Đầu tư năm 2005 đã có các quy định điều chỉnh hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài nhưng chưa rõ ràng, phải chờ đến Luật Đầu tư năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2015), thủ tục này mới trở nên đơn giản, tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài không cần xin thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp tại Việt Nam mà chỉ cần làm các thủ tục đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước, tùy từng lĩnh vực đầu tư kinh doanh có quy định điều kiện hay không. Do đó thủ tục đơn giản hóa rất nhiều, các nhà đầu tư đã lựa chọn phương thức đầu tư này để có thể tiếp cận thị trường Việt Nam dễ dàng hơn.

Trong năm đầu đã có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Tổng số vốn đầu tư là 3,425 tỷ USD.

Cần có thống kê đầy đủ

Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng với tốc độ nhanh hơn trong thời gian tới khi được hỗ trợ bởi các điều kiện chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ,được xem xét nới lỏng hơn. Bên cạnh đó cũng phải kể đến những điểm mới do Bộ Tài chính đề xuất trong dự thảo Nghị định mới về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần sẽ xóa bỏ quy định nhà đầu tư chiến lược phải có cùng ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp như hiện nay, thay vào đó chỉ cần đáp ứng một số tiêu chuẩn về năng lực tài chính. Đồng thời, thay đổi thời gian hạn chế chuyển nhượng cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là ba năm thay vì năm năm. Quy định mới về luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam này phù hợp thông lệ quốc tế là mở đường cho nhà đầu tư tài chính đầu tư vào doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, nhằm tạo ra nhân tố mới trong giám sát doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.

Theo tiến sĩ Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài , GĐ Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư nước ngoài, Trường đại học Kinh tế – ĐHQG Hà Nội cho rằng, mặt tích cực của xu hướng này là giúp nhà đầu tư tiếp cận được thị trường Việt Nam một cách dễ nhất và nhanh nhất, nhưng số liệu thống kê chưa minh bạch để phản ánh quá trình ra/vào của luồng vốn. “Trong trường hợp đầu tư sinh lời, nhà đầu tư sẵn sàng bán vốn, khi đó chúng ta không thể thống kê được sự thay đổi này để biết giá trị của nhà đầu tư còn lại tại doanh nghiệp là bao nhiêu. Hơn nữa, nếu hình thức góp vốn, mua cổ phần phát triển rất có thể làm hạn chế hình thức đầu tư trực tiếp thông qua các dự án mới. Như vậy có thể làm chậm tiến độ thu hút dự án vào các lĩnh vực chúng ta mong muốn”, Mr.Thắng phân tích.

Trong thời gian gần đây cũng đã bắt đầu xuất hiện các quan ngại về khả năng doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam thâu tóm các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực bán lẻ và bất động sản thông qua hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần. Do đó, cần có số liệu thống kê đầy đủ làm cơ sở đánh giá, phân tích mặt tích cực và hạn chế của xu hướng này.

Subscribe
Nhận thông báo
guest
0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận