Các giải pháp giảm bội chi, kiềm chế nợ công phình to

Chính phủ phấn đấu giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm 2020 không để vượt quá mức 3,5% GDP. Quy mô của mức nợ công hằng năm trong giai đoạn 2016 – 2020 không vượt quá 65% GDP, nợ chính phủ không vượt quá 55% GDP và nợ nước ngoài quốc gia không vượt quá 50% GDP…

Bội chi không quá 3,5% GDP

Chính phủ vừa mới ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại nguồn ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nguồn tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

Theo đó, chính phủ phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu tổng quát và những mục tiêu cụ thể của Nghị quyết đến năm 2020, bảo đảm cân đối ngân sách tích cực, giữ vững an ninh tài chính quốc gia.

Cụ thể, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 20 – 21% GDP; tổng doanh thu ngân sách bằng khoảng 1,65 lần giai đoạn 2011 – 2015, trong đó doanh thu nội địa chiếm khoảng 84 – 85%, doanh thu từ dầu thô và doanh thu từ xuất nhập khẩu đạt khoảng 14 – 16%; tỷ trọng doanh thu ngân sách trung ương đạt từ 60 – 65%.

Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2016 – 2020 bình quân khoảng 24 – 25% GDP. Trong tổng chi ngân sách nhà nước, chi phí đầu tư phát triển đạt khoảng 25 – 26%, chi phí thường xuyên dưới 64%, ưu tiên bảo đảm chi phí trả nợ, chi phí dự trữ quốc gia.

Giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm 2020 không vượt quá 3,5% GDP. Quy mô số nợ công hằng năm trong giai đoạn từ 2016 – 2020 không vượt quá 65% GDP, nợ chính phủ không vượt quá 55% GDP và số nợ nước ngoài quốc gia không được vượt quá 50% GDP.

Các giải pháp giảm bội chi, kiềm chế nợ công phình to

Kiên quyết cắt giảm các dự án không hiệu quả, chưa cần thiết

Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Chương trình này là đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Cụ thể, chính phủ sẽ đẩy mạnh và cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư công. Rà soát lại các danh mục các chương trình, dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn vay nợ công, kiên quyết cắt giảm các chương trình, dự án không đảm bảo hiệu quả, chưa thực sự cần thiết.

Tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện bộ Luật đầu tư công, đổi mới căn bản thể chế quản lý nguồn vốn đầu tư công, đặc biệt với công tác lập dự án và đánh giá, thẩm định dự án, cơ chế đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội sau khi thực hiện dự án đã đi vào khai thác sử dụng.

Rà soát, đổi mới để khuyến khích hơn nữa nguồn đầu tư từ tư nhân, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào phát triển kinh tế xã hội; có chính sách ưu tiên nhằm thu hút nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với những dự án công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; hạn chế, loại bỏ những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, gây tác động và ô nhiễm môi trường.

Thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa, giảm tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước trong phần lớn các doanh nghiệp có vốn nhà nước hoạt động trong các ngành, lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước có thể đảm nhận, bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả; thoái toàn bộ vốn nhà nước khỏi các doanh nghiệp không thuộc ngành nghề nhà nước cần nắm giữ để sử dụng cho đầu tư phát triển và giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách trước mắt.

Áp dụng quản trị hiện đại đối với các doanh nghiệp nhà nước; minh bạch về hóa hoạt động đầu tư kinh doanh của chủ sở hữu nhà nước; nâng cao hiệu quả việc sử dụng nguồn lực nhà nước, tăng cường trách nhiệm giải trình của người đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp và hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển. Thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán nhằm minh bạch hóa thông tin.

Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; xử lý cơ bản và triệt để xử lý nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.

Đến năm 2020, các ngân hàng thương mại triển khai áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực vốn Basel II, trong đó phấn đấu có 12 – 15 ngân hàng đáp ứng đủ mức vốn tự có theo Chuẩn mực vốn Basel II; phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay bảo đảm cạnh tranh so với mức lãi suất cho vay trung bình trong nhóm ASEAN-4.

Tập trung cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước

Nhiệm vụ và giải pháp khác là tập trung cơ cấu lại doanh thu, chi phí ngân sách nhà nước, tăng cường việc quản lý nợ công, bảo đảm an toàn và bền vững nền tài chính quốc gia. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc vay bù đắp bội chi nguồn ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi phí thường xuyên; phấn đấu giảm bội chi phí ngân sách nhà nước tối thiểu như mức Nghị quyết của Quốc hội đề ra, từng bước tăng tích lũy cho đầu tư phát triển và trả nợ vay, tăng dự trữ nhà nước

Tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công (đặc biệt với đất đai, tài nguyên, tài sản tại khu vực sự nghiệp công, tài sản là các loại kết cấu hạ tầng giao thông) nhằm huy động nguồn vốn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu, thanh tra, kiểm tra; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và cải cách thủ tục hành chính trong thu nộp ngân sách nhà nước; vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, đồng thời ngăn chặn tình trạng chuyển giá, trốn thuế; đổi mới, áp dụng những biện pháp, kỹ năng quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, giảm tỷ trọng nợ đọng thuế.

Từng bước cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư hợp lý, giảm tỷ trọng chi thường xuyên gắn với đổi mới mạnh mẽ khu vực dịch vụ hành chính sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ, tinh giản bộ máy, biên chế, thực hiện cải cách lương; nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong những lĩnh vực chi phí thường xuyên, chi đầu tư phát triển. Cơ cấu lại chi ngân sách trong từng lĩnh vực, tập trung vào những dịch vụ thiết yếu, ngân sách nhà nước phải đảm bảo, hỗ trợ.

Hoàn thiện thể chế, đặc biệt là những chính sách, công cụ, những chỉ tiêu giám sát nợ công, bộ máy quản lý nợ công, bảo đảm tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật có liên quan, phù hợp với thông lệ quốc tế, để có thể kiểm soát toàn diện rủi ro và hiệu quả nợ công. Kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ nước ngoài quốc gia hằng năm trong giới hạn, mục tiêu đề ra; đảm bảo dư địa dự phòng cho những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra; thực hiện tái cơ cấu nợ công nhằm giảm thiểu những rủi ro về kỳ hạn nợ, rủi ro tái cấp vốn, thanh khoản, tỷ giá, lãi suất, tín dụng; đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Giám sát chặt chẽ việc cho vay, sử dụng vốn của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách cho các mục đích của ngân sách.

Nâng cao hiệu quả cảu việc sử dụng nguồn vốn vay, từng bước thu hẹp phạm vi sử dụng nợ công, chỉ tập trung cho các công trình, dự án trọng điểm, thực sự có hiệu quả, đảm bảo khả năng cân đối nguồn trả nợ; kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn vay về cho vay lại. Triển khai cơ chế chính sách cho vay lại đối với các chính quyền địa phương, cơ chế chia sẻ rủi ro tín dụng với các cơ quan cho vay lại. Hạn chế tối đa cấp bảo lãnh Chính phủ cho những khoản vay mới, khống chế hạn mức bảo lãnh cho 2 ngân hàng chính sách tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc hằng năm.

Tăng cường công việc giám sát thực hiện hạn mức vay nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhằm đảm bảo những chỉ tiêu an toàn về mức nợ nước ngoài; rà soát các dự án lớn, đánh giá việc thực trạng vốn mỏng (tỷ lệ vốn vay/vốn góp lớn) của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài để làm cơ sở dự báo nhu cầu vốn vay nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp; kiện toàn chế độ báo cáo thống kê mức nợ nước ngoài tự vay tự trả để phục vụ công tác theo dõi, giám sát hạn mức.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương về tài chính – ngân sách nhà nước và nợ công

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương về tài chính – ngân sách nhà nước và nợ công. Cụ thể, siết chặt kỷ luật tài khóa, ngân sách, nợ công; thực hiện thu chi trong phạm vi dự toán, vay nợ, giải ngân trong phạm vi kế hoạch và hạn mức được cấp thẩm quyền theo quyết định; chỉ ban hành cơ chế, chính sách chi khi có nguồn tài chính để đảm bảo; hạn chế tối đa việc ứng trước dự toán, chuyển nguồn, điều chỉnh tổng mức đầu tư những chương trình, dự án về sử dụng nguồn vốn vay; xử lý dứt điểm các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản và không để phát sinh thêm nợ xây dựng cơ bản mới. Tăng cường công tác quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước, xử lý dứt điểm tình trạng tồn đọng quyết toán, thực hiện nghiêm các chế tài về xử lý vi phạm trong công tác quyết toán những dự án đã hoàn thành.

Không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh chính phủ thành vốn cấp phát ngân sách nhà nước; không sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, xử lý khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, cấp vốn điều lệ cho tổ chức tín dụng thương mại hoặc đóng góp cổ phần tại những tổ chức tài chính quốc tế. Các khoản vay mới chỉ được thực hiện sau khi đã được đánh giá đầy đủ các tác động lên quy mô nợ công và khả năng trả nợ trong trung hạn.

Tiếp tục cải cách công tác kiểm soát chi phí ngân sách nhà nước theo hướng thống nhất quy trình, tập trung đầu mối kiểm soát và thanh toán các khoản chi phí của ngân sách nhà nước (bao gồm cả chi phí thường xuyên và chi phí đầu tư) gắn với việc phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của các đơn vị liên quan (cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước); để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kiểm soát chi, quản lý thu.

Tăng cường thanh, kiểm tra, kiểm toán, thực hiện công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình của ngân sách nhà nước và nợ công. Từng bước triển khai lập dự toán chi phí ngân sách nhà nước theo mục tiêu, nhiệm vụ, các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá dịch vụ, cam kết chi.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn

Kiện toàn về bộ máy nhà nước và nhân sự, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về tài chính – ngân sách nhà nước và nợ công.

Cụ thể, đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, gắn với cải cách chế độ công vụ, công chức. Đổi mới mạnh mẽ quy trình, phương thức tổ chức tuyển dụng, sử dụng, trả lương, đánh giá, đề bạt cán bộ; triển khai chế độ hợp đồng có thời hạn đối với viên chức nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII…

Kiện toàn về bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, liêm chính, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả theo đúng định hướng tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Nghiên cứu và rà soát, điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của những bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương theo hướng tinh gọn, gắn trách nhiệm quyết định chi ngân sách, vay nợ công với trách nhiệm quản lý ngân sách nhà nước và trả nợ công, đảm bảo hiệu quả và hiệu lực quản lý, phân bổ, cân đối nguồn ngân sách nhà nước, quản lý nợ, góp phần thực hiện những mục tiêu kiểm soát bội chi ngân sách, các mục tiêu về các khoản nợ công theo đúng như Nghị quyết, từng bước lành mạnh hóa, phát triển bền vững nền tài chính quốc gia.

Nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, dự báo, hoạch định kế hoạch và điều chỉnh chính sách kinh tế, xã hội, tài chính, ngân sách.

Subscribe
Nhận thông báo
guest
0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận